Y học hạt nhân trong Nhi khoa

Tổng quan
Y học hạt nhân (YHHN) là một phân nhánh của chẩn đoán hình ảnh, được áp dụng để chẩn đoán, phân độ nặng và điều trị nhiều bệnh lý; bao gồm các bệnh ung thư, bệnh tim, dạ dày ruột, nội tiết, nội thần kinh và các rối loạn khác trong cơ thể. Vì quy trình YHHN tác động ở mức độ tế bào, ngành này có tiềm năng phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm nhất, cũng như theo dõi những đáp ứng đầu tiên của bệnh nhi với một can thiệp điều trị.

Tại Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, Y học hạt nhân được áp dụng rộng rãi để hỗ trợ chẩn đoán bệnh thận tắc nghẽn, đánh giá hình thái và chức năng từng thận riêng biệt, tìm các di căn ung thư vào xương, đánh giá hình thái chức năng tuyến giáp trạng,… bởi vì kỹ thuật này giúp bác sĩ có được những hình ảnh đi kèm chức năng có độ nhạy cao, từ đó gia tăng sự chính xác trong tiến trình chẩn đoán và điều trị.

Ngày hoạt động đầu tiên của đơn vị
Ngày hoạt động đầu tiên của đơn vị

Dược chất phóng xạ thường được đưa vào cơ thể bệnh nhi qua đường tiêm, uống hoặc hít. Những chất này tập trung tại cơ quan hoặc vùng cơ thể cần đánh giá, làm chúng hiện rõ trên thiết bị ghi hình. Lượng phóng xạ dùng cho một lần quét thường nhỏ, tương đương với một lần chụp X-quang, và sau đó được bài tiết tự nhiên ra ngoài cơ thể.

Trang thiết bị
Máy ghi hình gamma ghi nhận năng lượng phóng xạ phát ra từ cơ thể bệnh nhi và chuyển thành hình ảnh để tái tạo hình ảnh của các cơ quan nội tạng hoặc mô. Máy ghi hình này cực kỳ nhạy với tia phóng xạ (tuy nhiên không hề phát bất kỳ một tia xạ nào); nhờ đó, bác sĩ nhận được những thông tin chính xác để xác định chẩn đoán, thiết lập phác đồ điều trị đúng đắn hoặc đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị hiện thời.

Hệ thống SPECT/CT và máy đo độ tập trung
Hệ thống SPECT/CT và máy đo độ tập trung

Máy ghi hình gamma có thể quét hạt nhân trên toàn bộ cơ thể hoặc tập trung tại một bộ phận nhất định tùy theo sự chỉ định của bác sĩ. Máy còn tạo được hình ảnh 3 chiều cũng như hình ảnh cắt lớp (SPECT) giúp bác sĩ nghiên cứu toàn diện hơn các vấn đề bệnh lý từ những góc độ khác nhau.

Các kỹ thuật đang được thực hiện tại đơn vị YHHN:

Kỹ thuật Mục đích
Xạ hình thận động Phát hiện bệnh lý thận tắc nghẽn
Đánh giá chức năng cầu thận tương đối
Đánh giá tưới máu thận
Đánh giá thận ghép
Đánh giá chức năng thận ở người cho thận
Xạ hình thận tĩnh Phát hiện dị tật bẩm sinh thận
Phát hiện viêm thận bể thận
Đánh giá chức năng thận tương đối
Xạ hình xương Đánh giá những vùng hình thái chức năng bất thường của toàn bộ hệ xương như: di căn của ung thư, gãy xương, viêm xương tủy, thoái hóa, các bệnh xương do rối loạn chuyển hóa.
Xạ hình tuyến giáp Đánh giá hình ảnh chức năng tuyến giáp, phát hiện bướu giáp nhân, tuyến giáp lạc chỗ, bướu giáp thòng, hỗ trợ chẩn đoán viêm giáp, suy giáp bẩm sinh, đo độ tập trung tuyến giáp
Xạ hình toàn thân với I-131 Phát hiện mô giáp ung thư còn sót sau phẫu thuật, phát hiện các ổ di căn do ung thư tuyến giáp

Định hướng phát triển
+ Xạ hình làm trống dạ dày
+ Xạ hình túi thừa Meckel
+ Xạ hình tuyến thượng thận
+ Xạ hình tuyến cận giáp
+ Xạ hình gan mật
+ Xạ hình tưới máu cơ tim
+ Xạ hình tưới máu não.
+ Điều trị nội trú Ung thư giáp bằng I-131 liều cao.

Những lợi ích và nguy cơ của kỹ thuật ?
Lợi ích
Các thông tin nhận được từ kỹ thuật YHHN là độc nhất và không thể có được bằng các kỹ thuật hình ảnh học khác.
Trong nhiều bệnh, xạ hình YHHN cho ra nhiều thông tin hữu ích nhất để chẩn đoán và quyết định phương thức điều trị phù hợp.

Nguy cơ
Có nguy cơ từ phóng xạ, tuy nhiên vì liều của chất đánh dấu phóng xạ sử dụng nhỏ, quy trình kỹ thuật YHHN không làm phát xạ nhiều và được chấp nhận để chẩn đoán (nguy cơ từ phóng xạ rất thấp so với các lợi ích thu được).
Kỹ thuật chẩn đoán bằng YHHN đã được dùng trên 50 năm qua, và chưa có ghi nhận nào về tác dụng không mong muốn trong thời gian dài nào khi tiếp xúc phóng xạ liều thấp.
Các phản ứng dị ứng với dược chất phóng xạ có thể có, nhưng rất hiếm và thường ở mức độ nhẹ.

Những giới hạn của YHHN trong Nhi khoa ?
Xạ hình YHHN thường mất nhiều thời gian để chất đánh dấu phóng xạ tích tụ trong bộ phận cơ thể muốn chụp và quá trình chụp có thể kéo dài nhiều giờ để hoàn tất. Tuy nhiên, các thiết bị tiên tiến tại đơn vị sẽ giúp giảm thời gian ghi hình.

Độ phân giải các cấu trúc giải phẫu trong phim xạ hình có thể không cao như các kỹ thuật hình ảnh học khác như CT hoặc MRI. Tuy nhiên, phim xạ hình YHHN có độ nhạy cao hơn các kỹ thuật khác trong nhiều chỉ định, và thông tin về hoạt động chức năng của cơ quan có được từ kỹ thuật YHHN thường không thể có được nếu dùng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác.

VÕ VIỆT HÂN – BS. TRẦN VŨ TRƯỜNG GIANG
KHOA Y HỌC HẠT NHÂN
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH PHỐ